Hướng dẫn cách viết Kết bài Tây Tiến 8 câu đầu hay nhất. Với các mẫu mở bài được tổng hợp và biên soạn dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn.
Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội; Ôn tập trang 58; Bài 8: Đất nước và con người (Truyện) Tóm tắt, bố cục, nội dung chính bài thơ Tây Tiến; Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Dưới bóng hoàng lan - CTST;
XSTN 20/10 - Báo Quốc Tế sẽ cập nhật trực tiếp kết quả xổ số Tây Ninh hôm nay - XSTN thứ 5 ngày 20/10/2022. Kết quả xổ số hôm nay được quay vào lúc 16 giờ 15 phút vào ngày thứ 5 hàng tuần và mở thưởng bởi Công ty xổ số Kiến thiết Tây Ninh.KQXSTN bắt đầu quay số từ giải tám cho đến giải nhất, cuối cùng
Soạn bài Tây Tiến giúp các bạn nắm được nội dung cũng như bút pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.Soạn bài mẫu lớp 12 bài Tây tiến sẽ là tài liệu tham khảo hay hướng dẫn các bạn đọc - hiểu tác phẩm hiệu quả, từ đó học tốt môn Ngữ văn 12.
Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi nhà thơ Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Sau đây là nội dung chi tiết ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn tâm tư tình cảm của tác giả khi đặt nhan đề cho bài thơ Tây Tiến. 1.
3. Đề số 3. Bài thơ Tây tiến của nhà thơ Quang Dũng là bài thơ mà tác giả đã khắc họa thành công vẻ đẹp hùng vĩ, mỹ lệ của thiên nhiên Tây Bắc và nét hào hoa, vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến. Để giúp bạn hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về các dạng đề đọc hiểu liên quan đến văn bài thơ, cùng Đọc Tài Liệu tham khảo một số đề đọc hiểu Tây tiến
Đề 1: Nêu hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) Đề 2: Phân tích/ bình giảng đoạn thơ sau. a. Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi. b. Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
sBRtG. Đề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023 sẽ giúp các bạn tiếp cận gần hơn với dạng đề thi theo hướng mới mà bộ đã đưa ra. Các bạn nhớ chú ý các làm và bài tham khảo nha!Đề bài Trong bài thơ “Tây Tiến”, nhà thơ Quang Dũng đã hai lần nhắc đến sự hi sinh của người lính Tây Tiến “Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”Và“Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một, NXBGD, 2016 Từ đó liên hệ ngắn gọn với hình tượng nhân vật Tnú qua đoạn văn miêu tả cảnh Tnú bị bọn giặc tra tấn, đốt đôi bàn tay bằng giẻ tẩm nhựa cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Theo anh chị, tinh thần bi tráng và đặc trưng của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng được thể hiện như thế nào qua “Tây Tiến” và “Rừng xà nu”?Bài Làm Đề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023 “Cuộc tái sinh màu nhiệm” mang hơi thở của thời đại được các văn nghệ sĩ nhắc đến bằng niềm tự hào, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong những sáng tác giai đoạn 1945 – 1975. Hình tượng anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp là biểu tượng cho sức mạnh, vẻ đẹp kiên trung, hào sảng, những người quả cảm đang dấn thân vào “cuộc tái sinh” đầy máu thêm Đề thi Đất Nước theo hướng mới năm 2023Thơ ca thời kháng Pháp tập trung xây dựng hình tượng người lính Cách mạng với những phẩm chất đẹp đẽ, đại diện cho lí tưởng, cho tinh hóa khí phách của dân tộc Việt Nam trong những ngày sục sôi đánh giặc. Họ là ai? Đó là “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” trong thơ Chính Hữu; là “Anh Vệ quốc quân ơi – Sao mà yêu anh thế?” trong thơ Tố Hữu, là “So anh máu nhuộm chiến trường thắm chi?” trong thơ Hoàng Trung Thông… và đâu đó vẫn còn sừng sững bức tượng đài người lính Tây Tiến trong bài thơ cùng tên sáng tác năm 1948 của Quang Dũng cũng gây xúc động, nao lòngAnh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đờiVàRải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành…Quang Dũng – một thanh niên trí thức hào hoa, lãng mạn, một người hòa nhập rất nhanh, rất mãnh liệt vào đời sống Cách mạng và Kháng chiến, tình nguyện dấn thân vào Trung đoàn 52 – Tây Tiến, sống và chiến đấu trong điều kiện vô cùng gian khổ, khắc nghiệt. “Tây Tiến” trước hết mang cảm xúc của “cái tôi” cá cá nhân ấy lại hòa nhập vào dòng người trên những nẻo đường ra trận. Bài thơ mang đậm hào khí của cả một lớp người thời đại, mang tính độc đáo của một tâm trạng riêng, vừa mang cảm xúc chung của những con người trong hoàn cảnh mới. Tất cả đã tạo nên một “Tây Tiến” riêng biệt, không thể lặp lại hay thay thế trong nền thơ kháng tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến” gắn chặt với một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc cuộc hành binh Tây Tiến. Không gian nghệ thuật là núi rừng miền Tây Bắc Bộ, với những địa danh xác thực như Mường Lát, Sài Khao, Mai Châu, Pha Luông, Châu Mộc – một cảnh trí đậm sắc thái thiên nhiên nơi lam sơn chướng khí nghìn trùng. Trên cái nền cảnh ấy, hình tượng người lính xuất hiện thật ấn tượngAnh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đờiVới hai dòng thơ, Quang Dũng đã khắc họa dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, đầy hào khí. Tinh thần chinh chiến kiên dũng, dám xả thân, thái độ ngang tàng ngạo nghễ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng cũng được nhà thơ ghi lại bằng ngôn ngữ gợi hình ảnh, giàu cảm xúc, giọng điệu chùng xuống và man mác cung đường chiến đấu quanh co, khúc khủy “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, đã bao lần người lính Tây Tiến dốc cạn sức bình sinh, mệt mỏi quá đành thiếp đi trên lộ trình Tây Bắc. Hai tiếng “dãi dầu” gợi lại sự cực nhọc, vất vả của người lính. Đường Tây Tiến cheo leo, tiết trời khắc nghiệt, súng đạn gần kề, người lính phải trải qua trăm ngàn gian khó. Sự mệt nhọc, kiệt sức là lẽ đương nhiên!Liên quan Phân tích sông hương qua hai đoạn trích sauTuy nhiên, giá trị của hai câu thơ trên sẽ giảm đi phần nào nếu ta chỉ dừng lại ở lớp nghĩa đó. Với biện pháp nói giảm “bỏ quên đời”, giọng thơ xót xa, cay đắng, Quang Dũng đã hé lộ cho ta khoảnh khắc thiêng liêng khi người lính Tây Tiến vĩnh biệt cuộc đời, bỏ lại phía trước hành trình Tây Tiến nhọc nhằn còn đang xôn xao chờ đợi. Nhà thơ không né tránh hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà nhìn rất thẳng, trực diện, đây là nét mới của thơ ca Việt Nam thời kì kháng về sự hi sinh, Quang Dũng không nhấn mạnh sự đau đớn, uất ức của cái chết đến rụng rã tâm hồn mà xoa dịu cảm giác đau thương bi lụy, làm tăng tính chất thanh thản của cuộc hi sinh vì nước, vì lí tưởng cao đẹp của một thời đại bất khuất hào khéo léo khi Quang Dũng đã đặt hình tượng người lính Tây Tiến vào trong miền không gian đầy không khí bi hùng xưa cổ, với chiến trường là miền viễn xứ âm u lạnh lẽo. Ở đoạn thơ tiếp theo, bằng tất cả tấm lòng của người từng chung sức chung lòng với đồng đội trong cuộc trường chinh gian khổ, Quang Dũng đã tưởng nhớ về sự hi sinh của đồng đội bằng những câu thơ đậm chất bi trángRải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành…Ở dòng thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, với những từ Hán Việt gợi không gian cổ kính “biên cương”, “viễn xứ”, nhà thơ đã nhấn mạnh sự lạnh lẽo, đơn độc của những nấm mồ vô danh, không chút khói hương. Đến đây ta thấy rằng, cái chết dẫu là sự hi sinh vì Tổ quốc cũng không thể không gợi lên cảm xúc bi thương, đau đớn, day dứt lòng người. Hai câu thơ gọi nhớ đến những dòng vĩ thanh nghẹn ngàotrong bài “Núi đôi” của Vũ CaoAi viết tên em thành liệt sĩBên những hàng bia trắng giữa đồngNhớ nhau anh gọi em đồng chíMột tấm lòng trong vạn tấm lòngMột bên là “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, một bên là “những hàng bia trắng giữa đồng”, hiện thực đau xót được hai thi sĩ nhắc đến bằng những hình ảnh đọc thoáng qua thôi nhưng cảm giác quặn lòng. Là “bi” nhưng không “lụy”, “bi” mà vẫn rắn rỏi, gân guốc, vẫn giữ vững sức mạnh anh hùng Cách mạng Việt Nam bởi nhà thơ đã nâng đỡ mọi thứ bằng đôi cánh lãng mạn, hướng về tương lai tương bi mờ hẳn bởi lí tưởng quên mình vì Tổ quốc Việt Nam, người lính hiến trọn tuổi thanh xuân của mình bởi trong anh có bầu máu nóng đầy nhiệt huyết. Đó là lí tưởng cao cả của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà trên những ngả đường ra trận thời ấy vẫn vang vang bài ca nồng nhiệt, say mê “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi/ Nào có mong chi đâu ngày trở về/ Ra đi ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi ra đi thà chết không lùi”. Quang Dũng viếtChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhGiảm đi từ Hán Việt, đây là giọng điệu của tuổi trẻ thời chống Pháp lên đường đuổi giặc, khí phách của thời đại, thanh niên Việt Nam không chỉ tự nguyện dấn thân mà còn dám vượt lên cái chết. Họ sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tính mạng của mình vì lí tưởng cứu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là minh chứng cho quan niệm “Văn nghệ phụng sự kháng chiến” Nguyễn Đình Thi, văn nghệ góp tiếng nói cổ vũ, động viên người trẻ Việt Nam ra đi chiến đấu vì lí tưởng của tuổi trẻ. Chính vì vậy mà người nghệ sĩ cũng là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng thời bấy cùng, Quang Dũng tưởng nhớ về giây phút vĩnh biệt đồng đội bằng hai câu thơ mang dáng dấp cổ điểnÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hànhHình ảnh “Áo bào thay chiếu” là hình ảnh tả thực. Sự thật người lính ngã xuống, không manh chiếu quấn thân, phải “về đất” với tấm áo lính đơn sơ, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng lại trở thành “áo bào” trang trọng. Vì thế, cái chết giữa núi rừng mịt mù san giả trở nên thiêng liêng hơn bao giờ Dũng viết “anh về đất” – một cách nói giảm tránh nhằm làm vơi nỗi đau về sự hi sinh, tăng tính chất thanh thản, hào hùng cho người lính. Nhà thơ thật khéo léo khi trước đó ông đã viết “bỏ quên đời”, và đến phút giây này lại là “anh về đất” nhằm linh thiêng hóa và bình thản hóa cuộc ra đi vì chính nghĩa của anh bộ đội cụ Hồ. Đã dấn thân ra đi thì chết đối với họ chẳng là gì cả. Chết chẳng qua chỉ là vùi thây vào lòng cát bụi, trở về với đất mẹ bao dung, có đất mẹ âu yếm, vỗ thêm Dàn ý so sánh hai chi tiết trong cùng một tác phẩmTiếng thét gào của dòng sông Mã ở câu thơ cuối như khúc tráng ca tiễn người lính trở về với đất. Sự mất mát lớn lao được thiên nhiên ngưỡng vọng, tiễn biệt. Chỉ với tiếng “gầm”, Quang Dũng đã thật sự “lên gân” nhằm dìu hồn người đọc bay bổng trong cảm hứng lãng mạn, vượt lên đau đớn, xót xa. Từ những hình ảnh này, hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp cổ điển, dáng dấp của các chiến sĩ thuở xưa ra đi vì nghĩa lớn với tinh thần “nhất khứ bất phục hoàn”, vừa mang hào khí thời đại kháng Pháp. Lịch sử đã đắp bồi cho các anh tình yêu nước, ý thức trách nhiệm với non sông. Nhà thơ Anh Ngọc đã từng nhận xét về bài thơ Tây Tiến chỉ với hai khái niệm “Kinh điển đến thế, hiện đại đến thế”. Rõ ràng, sự cổ điển và không khí hiện đại của cuộc hành binh máu lửa luôn sôi trào trong những vần thơ sóng đôi với cuộc đời người dịch Điện Biên Phủ thành công, dân tộc Việt Nam đã làm tròn bổn phận của mình, chiến đấu vì lí tưởng hòa bình và tương lai tươi sáng. Mười bảy năm sau đó, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ra đời. Trong bối cảnh Mĩ ào ạt đổ quân xuống chiến trường miền Nam, ném bom khủng bố ác liệt, “Rừng xà nu” đã vẽ ra con đường chúng ta phải đi, nêu rõ chân lí của thời đại đánh Mỹ. Một lần nữa dân tộc ta, đất nước ta chìm trong khói lửa điêu linh. “Rừng xà nu” viết về những con người trong một bản làng xa xôi, heo hút – làng Xô Man. Bằng tình yêu nước thiết tha, mãnh liệt, họ đã chiến đấu bảo vệ bản làng, quê hương, bảo vệ màu xanh của những cánh rừng xà nu bất tận. Trong truyện nổi lên hình tượng Tnú. Đây là một nhân vật anh hùng nối tiếp những phẩm chất tốt đẹp thời kháng Pháp của người lính Tây Tiến, của Núp trong “Đất nước đứng lên” – Nguyên Ngọc. Tnú đã góp một nét mới cùng với tập thể anh hùng trong văn học thời chống Mỹ như Chị Sứ trong “Hòn Đất” Anh Đức, Việt trong “Những đứa con trong gia đình” Nguyễn Thi, anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trong “Sống như Anh” Trần Đình Vân…Đọc thêm Đề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023Đoạn miêu tả cảnh Tnú bị tra tấn có lẽ là đoạn văn vừa đớn đau, vừa hào hùng nhất – cao trào của tác phẩm mà Nguyễn Trung Thành đã dụng công xây dựng. Để làng Xô Man từ bỏ giấc mộng cầm giáo mác, bọn thằng Dục đã dùng giẻ tẩm nhựa cây xà nu đốt mười ngón tay Tnú. “Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón[…] Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”, một “con cọp núi rừng” giờ đây bị hành hạ dữ dội, nỗi đau ấy có lẽ không gì xoa dịu được, nó tạo nên niềm căm phẫn như sóng ồ ạt khiến Tnú cắn chặt răng chịu đau, “không thèm kêu van”, không khuất phục trước quân thù. Đó cũng một ngọn lửa đốt cháy lòng hận thù của người làng Xô thét của Tnú “Giết”, tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết”, một cuộc “đồng khởi” đã nổi dậy. Âm thanh hùng tráng của cuộc chiến đấu và vẻ đẹp của người anh hùng làng Xô Man đẹp và kì vĩ biết bao. Bị đốt mười đầu ngón tay là bi kịch đớn đau của cuộc đời Tnú. Nhưng nó cũng là “bản lề” để mở ra một cuộc đồng khởi oai hùng, dũng cảm, người làng Xô Man đã chính thức dùng bạo lực Cách mạng chống lại bạo lực phản Cách mạng, đi đến thắng lính Tây Tiến và người anh hùng Tnú đã “Lấy nỗi đau vô hình làm sức mạnh vô biên”, vượt qua mọi thử thách, hiểm nguy, đứng lên chiến đấu và chiến thắng, thể hiện sức mạnh thời đại của cộng đồng, dân tộc. Họ thật sự là những tấm gương anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm thần bi tráng và vẻ đẹp của chủ nghĩa Anh hùng Cách mạng được thể hiện cụ thể qua đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng và đoạn Tnú bị tra tấn và cuộc đồng khởi trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Người lính Tây Tiến trải qua những gian lao tột cùng căn bệnh sốt rét, địa hình núi đồi hiểm trở, sự hi sinh nghẹn lòng, song họ vẫn mạnh mẽ can trường, vượt lên gian khổ bằng sự kiêu hùng, lẫm liệt. Tnú chịu đựng nỗi đau tận cùng đôi bàn tay Tnú là hiện thân của nỗi đau xác thân, cái chết của vợ con là nỗi đau của gia đình, sự hi sinh của anh Quyết, bà Nhan, anh Xút và những con người khác ở làng Xô Man dưới tay thằng Mỹ là nỗi đau của buôn làng. Ba mối thù hợp thành nguồn sức mạnh khiến Tnú đứng dậy chiến đấu, trả thù, bảo vệ buôn làng, giữ mãi màu xanh của những cánh rừng xà nu tít tắp. Chủ nghĩa anh hùng Ccách mạng Việt Nam được thể hiện rõ nét qua “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Hình tượng Tổ quốc từ trong máu lửa, trở mình “đứng dậy sáng lòa” Nguyễn Đình Thi, hình ảnh người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang cầm súng, đánh giặc được ngợi ca bằng giọng thơ hào sảng, giọng văn hùng hồn. Hai tác giả đã thổi vào trong tác phẩm không khí thời đại làm bừng lên sức sống, làm sáng ngời phẩm chất đẹp đẽ của người lính vệ quốc.“Sắt lửa mặt trận đang hun đúc nên nền văn nghệ của chúng ta” Nguyễn Đình Thi, quả thế! Trải qua hơn nửa thế kỉ, đến nay bài thơ “Tây Tiến” vẫn còn đủ sức ngân vang trong tâm hồn người đọc. Hình tượng người lính thời kì kháng chiến chống Pháp bất tử cùng thời gian, lời thơ vẫn đủ sức trĩu nặng lòng người. Từ đó khơi dậy ý thức tuổi trẻ Việt Nam thời đại mới cần nhận thức được bổn phận của mình, dám đương đầu với thử thách, bản lĩnh, gan dạ, xông pha khi Tổ quốc Tiến biên cương mờ khói lủaQuân đi lớp lớp động cây rừngVà bài thơ ấy, con người ấyVẫn sống muôn đời với núi sôngGiang NamĐề thi Tây Tiến theo hướng mới năm 2023Originally posted 2020-02-07 092307.
TÂY TIẾN Quang Dũng – Lưu ý Bài ôn tập Tây Tiến có nhiều phần, được đánh số thứ tự, để đọc các phần tiếp theo, các em vào link này KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ – TÁC PHẨM Tác giả Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng hơn hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, tinh tế và lãng mạn. Tác phẩm Hoàn cảnh sáng tác Đoàn quân Tây Tiến + Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng của quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ của Việt Nam. + Địa bàn đóng quân và hoạt động của Trung đoàn là một miền rừng núi rộng lớn và hiểm trở của biên giới Việt – Lào gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và Sầm Nứa. + Sau một thời gian hoạt động, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52. Chiến sỹ Tây Tiến + Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là học sinh thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào hoa lãng mạn. + Bài thơ được viết trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy nhiên họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Quang Dũng vị trí tác giả trong hoàn cảnh + Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến. Tới cuối 1948, ông được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu Chanh, một làng thuộc tỉnh Hà Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. + Năm 1957, khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành “Tây Tiến” Hoàn cảnh sáng tác cho thấy rõ hơn nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị cũ và mảnh đất miền Tây đầy kỷ niệm, nỗi nhớ đã trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ, đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hòa hoa, hào hùng của chiến sỹ Tây Tiến, hiểu được bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn – những yếu tố làm nên chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ. Mạch cảm xúc Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở thành khúc ca bi tráng phản ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến. Cảm hứng lãng mạn thường tô đậm cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội, những vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lý tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực. Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình tượng tương phản, đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Cảm hứng bi tráng sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến. Bố cục Nỗi nhớ dựng kỉ niệm thành bức tranh Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng rất đỗi thơ mộng và trữ tình 14 câu đầu Cảnh liên hoan đêm lửa trại và mây trời, sông nước Tây Bắc Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến Lời hẹn ước. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ và cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp. TÌM HIỂU VĂN BẢN Nỗi nhớ về chặng đường hành quân gian lao vất vả của chiến sỹ Tây Tiến qua vùng núi rừng miền Tây Hai câu đầu Khúc dạo đầu của nỗi nhớ nhung Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4/3 “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!” + Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt – Lào thuộc tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa… Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sỹ Tây Tiến. Vì thế, Sông Mã vừa là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây. Sông Mã còn là một dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui, những mất mát hy sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa tử sỹ. Sông Mã là một hình ảnh thiên nhiên miền Tây đựng đầy kỷ niệm về trung đoàn Tây Tiến. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc đến Sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ nhung. + Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có một phút ngừng lặng để cảm nhận sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi “SôngMã xa rồi”, để rồi sau đó hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ “Tây Tiến ơi!”. Tiếng gọi ấy không dừng lại trong câu 1 mà như được ngân nga, nối tiếp trong những vần “ơi” của từ láy “chơi vơi” ở câu 2 – phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng. Câu sau Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt, trào dâng trong câu thơ tiếp theo “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi ” + Từ “nhớ” điệp lại ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh, không thể nguôi ngoai. + Vế đầu của câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ “nhớ về rừng núi” – đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông., những địa danh vừa gợi lên kỷ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ; và vì thế nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi, nỗi nhớ còn hướng tới những năm tháng quá khứ đầy kỷ niệm và những người đồng đội thân yêu, nay kẻ còn, người mất. + Vế sau câu thơ dành miêu tả trạng thái của nỗi nhớ. “Chơi vơi” là từ láy vần, gợi độ cao phiêu du, bay bổng, rất phù hợp để miêu tả nỗi nhớ nhung về miền núi cao. Hơn nữa, từ láy “chơi vơi” gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo đếm, một nỗi nhớ da diết, mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng, ăm ắp, không nguôi. Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết hướng về những kỷ niệm không thể nào quên trong quá khứ với miền Tây và trung đoàn Tây Tiến. Mười hai câu sau Nỗi nhớ chủ yếu hướng về vùng đất miền Tây qua chặng đường hành quân gian nan vất vả của trung đoàn Tây Tiến. Thông qua những kỷ niệm về thiên nhiên và con người, Quang Dũng khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiên. Nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây Thông qua những nét phác tài hoa, vừa hiện thực, vừa thấm đẫm chát lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền tây heo hút, hiểm trở nhưng cũng hùng vĩ, thơ mộng, biết bao kỳ thú. Sương Nét đặc sắc đầu tiên về thiên nhiên miền Tây qua ký ức của Quang Dũng chính là màu sương rừng mờ ảo. Sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát, nhưng đó không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỷ niệm, của nỗi nhớ thương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi” + Bút pháp hiện thực trong câu trên đã mô tả một đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ “lấp” ở cuối vế đầu. Với việc này, nhà thơ đã cho thấy màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc, che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi, khiến con đường hành quân của các chiến sỹ thêm vất vả, gian nan. + Với câu sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn Đêm sương thành “đêm hơi” bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc theo hàng quân được nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc. Những thanh bằng nhẹ bẫng trong câu thơ càng làm đậm thêm sắc hư ảo của màu sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Dốc núi Nhắc đến miền Tây không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Đoạn thơ mô tả dốc núi miền Tây đã làm hiện ra sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó cũng đồng thời làm hiện ra cuộc hành quân gian lao và vất vả, ý chí bất khuất kiên cường, tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến. Đọc đoạn thơ mô tả dốc núi của Quang Dũng, người đọc có thể nhớ tới con đường khó khăn lên xứ Thục của Lý Bạch xưa “Thục đạo nan! Thục đạo nan Nan ưhướng thiên thanh” Nghĩa là Đường lên xứ Thục khó thay Khó như đi lên trời xanh + Câu thơ đầu trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu 2 vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi ra những nỗi nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách nghị lực của các anh. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây đã hiện ra trong ý nghĩa tạo hình của biểu cảm của các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”. Từ láy “khúc khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh ngay dưới chân chiến sỹ, còn từ láy “thăm thẳm” lại gợi độ cao, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng, con đường lên miền Tây quả là “nan ư hướng thiên thanh’ Lý Bạch. Sự hiểm trở ấy còn được hiện ra trong nhạc điệu bởi sự phối hợp dày đặc năm thanh trắc ghập ghềnh trong một câu bảy chữ + Câu thơ thứ hai Dốc núi miền tây còn được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về độ cao chót vót “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Từ láy “heo hút” được đảo lên đầu cao nhấn mạnh sự hoang sơ xa vắng, thăm thẳm như vô tận. “Cồn mây’ là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất, dựng lên thành cồn, thành dốc. Từ đó câu thơ dán tiếp cho thấy dốc núi cao đến mức con đường như lẫn vào mây, bao phủ đường núi, mây mờ mịt trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sỹ càng cheo leo, hiểm trở, hoang vu… Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đây là một cảm nhận chính xác của nhà thơ về địa hình heo hút, hiểm trở trên đường hành quân của chiến sỹ. Sự hiểm trở ấy đã làm tăng thêm những gian truân vất vả cho người lính. Nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính trong hình ảnh “súng ngửi trời” Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần, coi thường mọi gian lao vất vả. Vũ Quần Phương còn cho rằng hình ảnh “súng ngửi trời” là “Trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy có con người”. Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ lạc quan của chiến sỹ Tây Tiến, nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao. + Câu thơ thứ ba Dốc núi tiếp tục được miêu tả trong một nét vẻ sắc sảo, gân guốc “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” Điệp ngữ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng đã khắc họa vẻ đẹp kỳ vĩ, chênh vênh, kỹ thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ “ ngàn thước” cộng chất tương phản của các động từ “ lên ”, “xuống” trong hai vế câu đã tạo ra một nét gập đột ngột, dữ dội đặc tả độ cao của dốc, độ sâu của vực, bên này đường lên núi dựng đứng vút cao, bên kia vực đổ xuống hun hút hiểm trở Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình, dốc núi miền Tây đã được miêu tả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp ký thú, thông qua bức tranh thiên nhiên có thể thấy những vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến Họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, những khó khăn thử thách của thiên nhiên chỉ làm rõ hơn ý chí, sức mạnh tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sỹ của họ Mưa rừng Sau những câu thơ hun hút nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong 7 thanh bằng với rất nhiều âm thanh mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ” + Hình ảnh “mưa xa khơi” có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa, không gian bỗng như mênh mông, xa vời hơn. Sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó đưa mắt nhìn cảnh núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bênh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ “nhà ai” trở nên mơ hồ, xa xăm; sắc thái nghi vấn gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng “nhà” mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng suy tư để rồi sau đó tất cả là những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. + Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh những ngôi nhà đã gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung, dễ làm xao xuyến lòng người xa quê. Núi rừng thâm u Núi rừng miền Tây được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” + “Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này nếu câu trên có “thác”, “thét” mang thanh trắc ở âm vực cao thì âm dưới là “hịch”, “cọp” cũng mang thanh trắc nhưng thuộc âm vực thấp. Những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm, những dấu nặng liên tiếp trong câu dưới lại như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. + “Chiều chiều” và “đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại những miên viễn, vĩnh hằng, những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị nơi núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm – sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sỹ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ. Họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, họ đã vượt qua tất cả những gian truân vất vả bằng ý chí kiên cường và lòng dũng cảm Nỗi nhớ về người chiến sỹ Tây Tiến trong chăng đường hành quân Sự vất vả gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính đã ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây; Ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỷ niệm của họ trên đường hành quân Trước hết là một ký ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sỹ Tây Tiến trên đường hành quân “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” + Từ láy “dãi dầu” đã thể hiện tất cả những vất vả nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi phải vượt qua những núi cao vực thẳm, những thác ghềnh dữ dội, những sương gió nắng mưa. + Hai câu thơ tựa như một bức ký họa đầy ấn tượng về người lính. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc, vô tư, trẻ trung; Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã, không thể bước tiếp cùng đồng đội. Cũng có thể thấy người lính quỵ xuống khi đang đi giữa hàng quân nhưng “súng mu” vẫn bên mình như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng anh cũng không thoái lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn để qua đó làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên khó khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến. Con đường hành quân của chiến sỹ Tây Tiến không chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả những kỷ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình. Miền Tây không chỉ có núi cao, rừng sâu., miền Tây còn còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp quện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của xôi nếp hương và nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” + Hai câu thơ là những cụm từ ngữ đã được xóa đi các yếu tố kết nối khiến cho nó mang dáng dấp như một bức tranh ấn tượng, một bức tranh của nghệ thuật sắp đặt, trong đó ghi lại tổng hợp những ấn tượng của cả thị giác, thính giác, khứu giác và thậm chí cả xúc giác. + Mở đầu bằng cụm từ “nhớ ôi.”, câu thơ đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa những tiếng chân thú rình rập đầy đe dọa, bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp mỏng manh vương vấn quấn quýt phút dừng chân ở Mai Châu, một bản làng miền Tây, tất cả đã đem đến cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sỹ trong bài thơ Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỷ niệm khó quên về tình cảm quân dân ấm áp trong cả đời người lính chiến. + Câu “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sỹ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa và tình em thơm thảo. Cũng có thể hiểu theo một nét thật lãng mạn của cụm từ “mùa em”. Người ta thường chỉ nói “mùa hod”, “mùa quả”. Đó là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái. Quang Dũng đã tạo ra một nghĩa mới mẻ, táo bạo và thật đa tình về mùa em khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh với kỷ niệm thơm thảo của hương nếp đầu mùa, Mai Châu còn gợi nhớ hình ảnh về những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng rỡ nụ cười, nồng nàn hương sắc. Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bênh, xao xuyến tới đê mê của những chàng trai Hà thành hòa hoa và lãng mạn. Với sự kết hợp uyển chuyển giữa họa và nhạc, giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, 14 câu thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng đã tái hiện sinh động và biểu cảm về một vùng đất hiểm trở, khắc nghiệt mà thơ mộng kỳ thú, gắn liền với chặng đường hành quân của người chiến sỹ Tây Tiến qua miền Tây. Từ những kỷ niệm hiện lên trong nỗi nhớ da diết về quá khứ, Quang Dũng đã thể hiện chân thực bức chân dung của những người lính Tây Tiến kiêu dũng và hào hoa, góp phần làm đậm thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến. Tài liệu sưu tầm tây tiến
đề bài tây tiến